Tổng thống Donald Trump đang có được nền kinh tế toàn cầu mà ông mong muốn. Các đối tác thương mại từ Liên minh Châu Âu (EU) đến Nhật Bản và Việt Nam dường như đang chấp nhận mức chi phí cao hơn, dưới hình thức thuế quan (tariffs), để được bán hàng hóa vào Hoa Kỳ. Đối với ông Trump, các thỏa thuận này, được thúc đẩy bởi sự kết hợp giữa đe dọa và thuyết phục, là sự hiện thực hóa niềm tin lâu năm vào chủ nghĩa bảo hộ và một ván cược lớn rằng điều này sẽ mang lại lợi ích chính trị và kinh tế cho người tiêu dùng Mỹ.
Vào Chủ Nhật, Hoa Kỳ và khối EU gồm 27 quốc gia đã thông báo đạt được một thỏa thuận khung thương mại: EU đồng ý chấp nhận mức thuế quan 15% của Hoa Kỳ đối với hầu hết hàng hóa của họ, làm giảm bớt nỗi sợ về một cuộc chiến tranh thương mại xuyên Đại Tây Dương.
Tuy nhiên, không có gì đảm bảo rằng việc cải tổ chính sách thương mại của Tổng thống Trump sẽ mang lại kết cục tốt đẹp như ông đã hứa. Thỏa thuận khung này còn khá sơ sài về chi tiết. Hầu hết các thỏa thuận thương mại đòi hỏi hàng tháng, thậm chí nhiều năm đàm phán kỹ lưỡng về các chi tiết nhỏ.
Các nhà kinh tế bên ngoài cho rằng thuế quan cao vẫn có khả năng làm tăng giá cho người tiêu dùng Mỹ, hạn chế khả năng hạ lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và làm cho nền kinh tế Hoa Kỳ kém hiệu quả hơn theo thời gian. Đảng Dân chủ nhận định rằng tầng lớp trung lưu và người nghèo cuối cùng sẽ phải gánh chịu chi phí của thuế quan.
Một quan chức kinh tế Nhà Trắng trước đây dưới thời Tổng thống Biden nhận xét: “Thật đáng chú ý khi điều này được xem là khoảnh khắc thở phào nhẹ nhõm. Nhưng nếu mức cơ sở mới trên tất cả các đối tác thương mại là 15%, thì đó là một sự cản trở đáng kể đối với tăng trưởng, làm gia tăng rủi ro suy thoái, đồng thời khiến Fed khó cắt giảm lãi suất hơn.”
Các thỏa thuận với EU diễn ra chỉ bốn ngày sau khi Nhật Bản cũng đồng ý với mức thuế quan 15% của Hoa Kỳ và đầu tư vào Hoa Kỳ. Trước đó, Hoa Kỳ đã đạt được các thỏa thuận tăng thuế quan đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam, Indonesia, Philippines và Vương quốc Anh.
Nhiều thỏa thuận thương mại một chiều hơn có thể sẽ diễn ra khi các quốc gia cố gắng đáp ứng thời hạn vào thứ Sáu, sau đó Tổng thống Trump sẽ áp đặt mức thuế quan cao hơn đối với các quốc gia từ chối nhượng bộ.
Tổng thống Hoa Kỳ từ lâu đã cho rằng Mỹ đã sai lầm khi không tận dụng ảnh hưởng của mình với tư cách là nền kinh tế lớn nhất thế giới và thiết lập một bức tường thuế quan, buộc các quốc gia khác phải trả tiền để tiếp cận thị trường tiêu dùng khổng lồ của Mỹ.
Tuy nhiên, nhiều chi tiết trong các thỏa thuận thương mại của ông Trump vẫn còn khá mơ hồ và chưa được ghi lại bằng văn bản. Ví dụ, Hoa Kỳ và Nhật Bản đã đưa ra các mô tả khác nhau về thỏa thuận đầu tư 550 tỷ đô la của Nhật Bản vào Hoa Kỳ.
Một nhà kinh tế tại Đại học Cornell nhận xét: “Các thỏa thuận thương mại dường như là một chiến thắng có điều kiện cho ông Trump, với các quốc gia khác dành cho Hoa Kỳ các điều khoản thương mại thuận lợi trong khi chấp nhận thuế quan của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, một số điều khoản của các thỏa thuận, như đầu tư của các quốc gia khác vào Hoa Kỳ, có vẻ hứa hẹn hơn về mặt lý thuyết so với thực tế có thể chứng minh theo thời gian.”
Tổng thống Trump cũng đang đối mặt với thách thức pháp lý từ các tiểu bang và doanh nghiệp, những người lập luận rằng tổng thống đã lạm quyền khi tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia để biện minh cho thuế quan đối với hầu hết các nền kinh tế thế giới.
Ông cũng chưa đạt được thỏa thuận với Trung Quốc – quốc gia đã khéo léo sử dụng mối đe dọa về thuế quan trả đũa và ngừng xuất khẩu khoáng sản đất hiếm, vốn rất cần thiết cho xe điện, chip máy tính và tuabin gió, để tránh nhượng bộ trước yêu cầu của ông Trump. Hoa Kỳ và Trung Quốc đang đàm phán trong tuần này tại Stockholm, Thụy Điển.
Các nhà phân tích tại Morgan Stanley cho rằng “kết quả có khả năng nhất là tăng trưởng chậm và lạm phát ổn định”, nhưng không phải là suy thoái. Dù vậy, các thỏa thuận này được cho là sẽ làm tăng giá cho người tiêu dùng Mỹ và làm giảm hiệu quả của nền kinh tế về lâu dài, theo tin từ Associated Press.