Một thông báo từ Tòa Bạch Ốc về chứng tự kỷ dự kiến sẽ được đưa ra vào chiều Thứ Hai, sau tuyên bố của Tổng Thống Donald Trump vào cuối tuần rằng “Tôi nghĩ chúng ta đã tìm ra câu trả lời” cho rối loạn phát triển này.
Bộ trưởng Y tế Robert F. Kennedy Jr. đã hứa vào đầu năm nay sẽ xác định nguyên nhân của chứng tự kỷ vào tháng 9. Điều này gây bối rối cho các chuyên gia về não bộ, những người cho rằng không có nguyên nhân duy nhất nào và những phát ngôn này dường như phớt lờ hàng thập kỷ nghiên cứu khoa học về các yếu tố di truyền và môi trường có thể đóng vai trò.
Đây là những gì chúng ta biết về chứng tự kỷ.
Chứng Tự Kỷ Là Gì?
Tự kỷ không phải là một căn bệnh. Đó là một tình trạng phát triển phức tạp, được biết đến nhiều hơn với tên gọi Rối loạn Phổ Tự kỷ (Autism Spectrum Disorder – ASD), ảnh hưởng đến mỗi người theo những cách khác nhau.
Nó có thể bao gồm sự chậm trễ trong ngôn ngữ, học tập hoặc các kỹ năng xã hội và cảm xúc. Đối với một số người, chứng tự kỷ nặng có nghĩa là không nói và có khuyết tật trí tuệ, nhưng phần lớn những người mắc chứng tự kỷ có những ảnh hưởng nhẹ nhàng hơn nhiều.
Tỷ Lệ Tự Kỷ Tăng Trong Nhiều Thập Kỷ
Có hai lý do chính. Thứ nhất, định nghĩa về chứng tự kỷ đã được mở rộng khi các nhà khoa học hiểu rõ hơn về phạm vi rộng các đặc điểm và triệu chứng của nó. Điều này dẫn đến những thay đổi trong tiêu chí mà bác sĩ sử dụng để chẩn đoán chứng tự kỷ và những cải tiến trong sàng lọc.
Đồng thời, các bậc cha mẹ ngày càng tìm kiếm chẩn đoán khi chứng tự kỷ trở nên phổ biến hơn và các trường học bắt đầu cung cấp các dịch vụ giáo dục mà họ hy vọng có thể giúp con em họ. Vào những năm 1990, chỉ những trẻ em có triệu chứng nặng nhất mới được coi là mắc chứng tự kỷ. Vào đầu những năm 2000, khi định nghĩa bắt đầu thay đổi, tỷ lệ tự kỷ ước tính là 1 trên 150 trẻ em. Số liệu thống kê mới nhất cho thấy cứ khoảng 31 trẻ em thì có 1 trẻ mắc Rối loạn Phổ Tự kỷ.
Sự gia tăng này không nằm ở các trường hợp nặng; đó là sự gia tăng ở các trường hợp nhẹ hơn, vốn không được coi là tự kỷ trong lịch sử, theo chuyên gia Helen Tager-Flusberg của Đại học Boston. Không có xét nghiệm duy nhất nào cho chứng tự kỷ, vốn được chẩn đoán chủ yếu thông qua đánh giá phát triển và hành vi.
Tình Hình Nghiên Cứu Về Tự Kỷ
Khoa học đã chỉ ra rằng chứng tự kỷ chủ yếu bắt nguồn từ di truyền, với việc phát hiện ra hàng trăm gen đóng vai trò. Các gen này có thể được di truyền, ngay cả khi cha mẹ không có dấu hiệu tự kỷ, hoặc đột biến có thể xảy ra khi não đang phát triển và các tế bào phân chia nhanh chóng của nó mắc lỗi.
Các chuyên gia cho rằng các tổ hợp gen và các yếu tố khác nhau có thể ảnh hưởng đến cách bộ não thai nhi phát triển.
Còn Các Yếu Tố Môi Trường Thì Sao?
Các nhà nghiên cứu đã xác định các yếu tố khác có thể tương tác với tính dễ bị tổn thương di truyền để tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ. Chúng bao gồm tuổi của người cha, sinh non và liệu người mẹ có một số vấn đề sức khỏe nhất định trong thai kỳ như sốt, nhiễm trùng hoặc tiểu đường.
Bất kỳ lo ngại nào về việc vắc-xin sởi – hoặc các vắc-xin khác – có thể liên quan đến chứng tự kỷ đã bị bác bỏ từ lâu, các nhà khoa học và các nhóm vận động hàng đầu cho người mắc chứng tự kỷ nhấn mạnh.
Còn Tylenol Thì Sao?
The Washington Post đưa tin vào Thứ Hai rằng chính quyền Trump dự định liên kết chứng tự kỷ với việc sử dụng thuốc giảm đau Tylenol, hay acetaminophen, trong thai kỳ.
Một số nghiên cứu đã đưa ra khả năng việc dùng thuốc giảm đau không kê đơn trong thai kỳ có thể liên quan đến nguy cơ tự kỷ, nhưng nhiều nghiên cứu khác lại không tìm thấy mối liên hệ nào, chuyên gia về tự kỷ David Mandell của Đại học Pennsylvania cho biết.
Một lưu ý quan trọng: Sốt không được điều trị trong thai kỳ, đặc biệt là trong ba tháng đầu, làm tăng nguy cơ sẩy thai, sinh non và các vấn đề khác, theo Hiệp hội Y học Bà mẹ – Thai nhi. Nhãn Tylenol khuyên phụ nữ nên hỏi ý kiến bác sĩ về việc sử dụng trong thai kỳ, và hiệp hội tiếp tục khuyên rằng đây là một lựa chọn phù hợp để điều trị sốt và đau trong thai kỳ.
Theo tin từ The Associated Press.