Trong những tháng đầu của nhiệm kỳ thứ hai tại Tòa Bạch Ốc, chính quyền Hoa Kỳ, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Donald Trump, đã thể hiện sự cứng rắn đặc biệt trong việc thực thi pháp luật, thậm chí có phần tàn bạo. Tình trạng này đặc biệt thể hiện rõ nét trong các hoạt động của Sở Di Trú và Hải quan (ICE) thuộc Bộ An ninh Nội địa.
Nhiều câu chuyện đã được đăng tải trên các phương tiện truyền thông về việc các đặc vụ ICE xuất hiện tại nơi làm việc và trường học để bắt giữ những người bị nghi ngờ cư trú bất hợp pháp tại Hoa Kỳ. Các nghi phạm thường bị các đặc vụ mặc thường phục tiếp cận, từ chối xuất trình giấy tờ tùy thân. Thậm chí, họ còn bị bắt giữ trên đường phố và giam giữ trong nhiều giờ hoặc thậm chí nhiều ngày. Điều này đã tạo ra một hình ảnh tiêu cực, ngày càng ăn sâu vào tâm trí người dân Mỹ, về việc lực lượng chấp pháp Hoa Kỳ áp dụng các chiến thuật theo kiểu nhà nước cảnh sát, vốn chỉ thấy ở các chế độ độc tài, chứ không phải ở một quốc gia luôn tự hào về việc tôn trọng quyền tự do dân sự và thượng tôn pháp luật.
Tuy nhiên, hành vi đáng báo động này không phải là mới, và cũng không chỉ giới hạn trong ICE. Nó là đỉnh điểm của xu hướng kéo dài, làm mờ ranh giới giữa các chiến thuật thực thi pháp luật trong nước và các hoạt động chiến tranh ở nước ngoài dưới danh nghĩa bảo vệ an ninh quốc gia. Sự quân sự hóa lực lượng chấp pháp đã diễn ra trong nhiều thập kỷ, nhưng đã đạt đến đỉnh điểm mới dưới thời Tổng Thống Trump.
Các chiến dịch truy quét di dân tàn bạo không phải là chưa từng có. Trước đó, Cơ quan Nhập cư và Nhập tịch (INS) cũng thường xuyên sử dụng các chiến thuật mạnh tay gây hấn. Tình trạng này trở nên phổ biến hơn sau vụ tấn công khủng bố 9/11 và sự chuyển đổi của INS thành ICE vào năm 2003. Người ủng hộ Tổng Thống Barack Obama từng ca ngợi ông là “người trục xuất” vì số lượng người nhập cư không có giấy tờ bị bắt giữ và trục xuất khỏi Hoa Kỳ kỷ lục trong nhiệm kỳ của ông.
Sự quân sự hóa đáng báo động của lực lượng chấp pháp đã bắt đầu từ trước đó. Một bước ngoặt quan trọng diễn ra dưới thời Tổng thống Ronald Reagan, khi các lực lượng cảnh sát địa phương được tiếp cận nhiều hơn với các thiết bị quân sự. Điều này càng trở nên quan trọng vào năm 1990 với việc mở rộng chương trình 1033 của Lầu Năm Góc. Chương trình này cho phép các sở cảnh sát địa phương và tiểu bang có được vũ khí và thiết bị hạng nặng tinh vi với giá rẻ hoặc đôi khi là miễn phí. Kết quả là một sự ham muốn mua sắm từ chính quyền liên bang.
Với sự trợ cấp của Washington, số lượng các chương trình SWAT (Vũ khí và Chiến thuật Đặc biệt) đã tăng vọt trên khắp Hoa Kỳ. Các đơn vị như vậy ngày càng được thành lập không chỉ ở các thành phố lớn với tỷ lệ tội phạm bạo lực rất cao, mà còn ở các thành phố vừa và nhỏ. Số lượng các cuộc đột kích của SWAT cũng tăng vọt từ khoảng 3.000 vào năm 1980 lên con số khổng lồ 50.000 vào năm 2014. Con số đó tiếp tục tăng lên.
Nhân viên SWAT không có hình ảnh thân thiện như “Cảnh sát viên thân thiện” và không được trang bị theo cách đó. Thay vào đó, họ trở nên không thể phân biệt được với nhân viên chiến đấu được trang bị vũ khí hạng nặng trong Quân đội hoặc Thủy quân lục chiến. Tệ hơn nữa, các đơn vị SWAT thường hành xử như những nhân viên chiến đấu dày dạn kinh nghiệm, đối xử với các nghi phạm và đôi khi cả những người ngoài cuộc như lính địch. Xu hướng đó càng trở nên rõ rệt khi các đơn vị cảnh sát ở các thị trấn và thành phố của Mỹ trải qua quá trình huấn luyện từ các lực lượng cảnh sát hoặc quân đội nước ngoài, bao gồm cả lực lượng an ninh khét tiếng của Israel.
“Căn bệnh SWAT” đã dần lan sang các thực thể thực thi pháp luật khác, liên bang, tiểu bang và địa phương. ICE đã chứng minh là đặc biệt dễ bị tổn thương. Hành vi của cơ quan này là hiện thân cho tư duy ngày càng gia tăng trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, coi thường dân thường không phải là những người cần được bảo vệ và phục vụ, mà là những kẻ thù tiềm tàng cần bị trừng phạt và vô hiệu hóa.
ICE có một mức độ tự do đặc biệt để tham gia vào hành vi đó. Những người không thể chứng minh rằng họ có quyền hợp pháp – thông qua quyền công dân theo huyết thống, quyền công dân nhập tịch hoặc tình trạng cư trú hợp pháp – có các biện pháp bảo vệ theo thủ tục tố tụng rất hạn chế. Cụ thể, chính phủ Hoa Kỳ không phải chứng minh rằng bên bị buộc tội không có quyền ở trong nước; bên bị buộc tội phải chứng minh rằng người đó có quyền đó – đảo ngược gánh nặng chứng minh thông thường trong hầu hết các thủ tục pháp lý.
Những người chỉ trích có lý do chính đáng để lên án các chiến thuật kiểu nhà nước cảnh sát ngày càng trắng trợn của ICE. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải thừa nhận rằng tình hình như vậy không phát triển trong một sớm một chiều và xuất hiện đầy đủ khi Tổng Thống Trump nhậm chức. Chủ nghĩa độc tài gia tăng không chỉ giới hạn ở ICE và vấn đề nhập cư.
Sự quân sự hóa lực lượng chấp pháp và việc sử dụng các chiến thuật kiểu nhà nước cảnh sát là biểu hiện của một xu hướng rộng lớn hơn, lan tỏa hơn đã diễn ra trong nhiều thập kỷ, với cả đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ tại Tòa Bạch Ốc.
Theo Ted Galen Carpenter, bài bình luận này ban đầu được xuất bản bởi Antiwar.com.