Lạm phát được dự báo sẽ tăng trong tháng 7, nguyên nhân một phần là do các khoản thuế quan (tariffs) đã đẩy chi phí hàng hóa nhập khẩu lên cao, gây khó khăn cho Cục Dự trữ Liên bang (Fed) trong việc quyết định có cắt giảm lãi suất ngắn hạn hay không, một điều mà Tổng thống Donald Trump đã liên tục yêu cầu.
Theo các chuyên gia kinh tế, giá tiêu dùng có thể đã tăng 2,8% trong tháng 7 so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức 2,7% của tháng 6 và mức đáy sau đại dịch là 2,3% hồi tháng 4. Lạm phát lõi, loại trừ giá thực phẩm và năng lượng, dự kiến tăng lên 3%, từ 2,9% của tháng trước. Cả hai con số này đều vượt xa mục tiêu 2% của Fed.
Việc lạm phát có khả năng gia tăng, dù không quá lớn, đặt Fed vào một tình thế khó xử. Tình hình việc làm đã chậm lại đáng kể trong quý vừa qua, đặc biệt sau khi Tổng thống Trump công bố một loạt các biện pháp thuế quan mới vào tháng 4. Sự trì trệ trong tăng trưởng việc làm đã làm dấy lên kỳ vọng trên thị trường tài chính về một đợt cắt giảm lãi suất từ ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, Chủ tịch Fed Jerome Powell đã cảnh báo rằng tình hình lạm phát xấu đi có thể khiến Fed phải giữ nguyên lập trường. Điều này đã gây ra sự tức giận cho Tổng thống Trump, người vốn không tuân thủ các quy chuẩn truyền thống về sự độc lập của ngân hàng trung ương và luôn yêu cầu chi phí vay vốn thấp hơn.
Dữ liệu mới nhất cũng được công bố trong bối cảnh căng thẳng tại Cục Thống kê Lao động (BLS), cơ quan thu thập và công bố dữ liệu lạm phát. Trước đó, Tổng thống Trump đã sa thải Erika McEntarfer, người đứng đầu BLS lúc bấy giờ, sau báo cáo việc làm tháng 8 cho thấy số lượng việc làm mới trong tháng 5 và 6 thấp hơn nhiều so với báo cáo ban đầu.
Ông Trump đã tuyên bố trên mạng xã hội rằng ông đã chọn E.J. Antoni, một nhà kinh tế tại Quỹ Di sản Bảo thủ và là người thường xuyên chỉ trích báo cáo việc làm, để thay thế bà McEntarfer. “E.J. sẽ đảm bảo các số liệu được công bố là THẬT và CHÍNH XÁC,” ông Trump viết.
Tình hình tại BLS còn phức tạp hơn bởi lệnh đóng băng tuyển dụng của chính phủ, buộc cơ quan này phải cắt giảm lượng dữ liệu thu thập cho mỗi báo cáo lạm phát. Ước tính, BLS hiện đang thu thập ít hơn khoảng 18% báo giá cho báo cáo lạm phát so với vài tháng trước. Điều này có thể dẫn đến các kết quả biến động hơn, dù về lâu dài vẫn đáng tin cậy.
Về cơ bản, giá cả dự kiến sẽ tăng nhẹ theo tháng, chỉ 0,2% từ tháng 6 đến tháng 7, và giá cốt lõi tăng 0,3%. Giá xăng có khả năng giảm trong tháng 7 và chi phí tạp phẩm tăng rất ít, làm giảm tổng thể lạm phát.
Theo tin từ The Associated Press ngày 11 tháng 8 năm 2025, các dấu hiệu cho thấy thuế quan đang đẩy giá lên cao đã xuất hiện trong báo cáo lạm phát tháng 6. Giá đồ chơi tăng 1,8% từ tháng 5 đến tháng 6, sau khi tăng 1,3% của tháng trước. Giá quần áo tăng 0,4% trong tháng 6, trong khi hàng hóa thể thao tăng vọt 1,8%.
Mức thuế quan trung bình đã tăng từ khoảng 2% trước khi Tổng thống Trump nhậm chức lên gần 18%, mức cao nhất kể từ đầu những năm 1930. Hầu hết hàng nhập khẩu từ Liên minh Châu Âu và Nhật Bản hiện phải chịu thuế 15%, trong khi hàng hóa từ Đài Loan chịu thuế 20% và Thụy Sĩ là 39%.
Các xu hướng khác cũng góp phần giữ cho lạm phát không tăng nhanh hơn. Ví dụ, giá thuê căn hộ đang hạ nhiệt dần sau những đợt tăng mạnh trong thời kỳ đại dịch. Giá xe mới cũng giảm nhẹ trong những tháng gần đây, ngay cả sau khi Tổng thống Trump áp đặt thuế 25% đối với ô tô và phụ tùng ô tô.
Các hãng sản xuất xe hơi của Mỹ và nước ngoài hiện đang chịu thuế, mặc dù các chuyên gia kinh tế cho rằng họ sẽ sớm chuyển chi phí này cho người tiêu dùng. Các công ty ô tô cũng đang phải trả thuế nhập khẩu 50% đối với thép và nhôm, và 30% đối với phụ tùng từ Trung Quốc.
Ford cho biết họ đã nộp 800 triệu USD tiền thuế quan trong quý thứ hai, trong khi General Motors gánh chịu 1,1 tỷ USD. Stellantis, nhà sản xuất ô tô lớn thứ tư thế giới, cho biết đã nộp 350 triệu USD tiền thuế quan trong số 1,7 tỷ USD chi phí dự kiến trong năm nay.
Người tiêu dùng có khả năng sẽ phải gánh thêm nhiều chi phí ngoài ngành công nghiệp ô tô trong những tháng tới, khi Tổng thống Trump bắt đầu hoàn tất nhiều khoản thuế quan. Khi các doanh nghiệp biết họ sẽ phải trả bao nhiêu, họ có nhiều khả năng chuyển chi phí đó cho người tiêu dùng, các chuyên gia kinh tế cho biết.
Tổng thống Trump vẫn khăng khăng rằng các nhà sản xuất nước ngoài sẽ chịu thuế bằng cách giảm giá để bù đắp cho các khoản thuế này. Tuy nhiên, giá nhập khẩu trước thuế đã không giảm nhiều kể từ khi các khoản thuế được áp dụng. Các chuyên gia kinh tế tại Goldman Sachs ước tính rằng các nhà sản xuất nước ngoài chỉ gánh 14% thuế cho đến tháng 6, trong khi 22% do người tiêu dùng chi trả và 64% do các công ty Mỹ gánh chịu. Tuy nhiên, dựa trên các mô hình trước đây, các chuyên gia kinh tế dự đoán rằng đến mùa thu này, người tiêu dùng sẽ chịu 67% gánh nặng, trong khi các nhà xuất khẩu nước ngoài trả 25% và các công ty Mỹ chỉ 8%.
Nhiều công ty lớn vẫn đang tăng giá để đối phó với thuế quan, bao gồm các nhà sản xuất quần áo Ralph Lauren và Under Armour, cũng như công ty kính mắt Warby Parker. Procter & Gamble, nhà sản xuất kem đánh răng Crest, chất tẩy rửa Tide và giấy vệ sinh Charmin, cho biết vào cuối tháng trước rằng họ sẽ tăng giá khoảng một phần tư sản phẩm của mình theo tỷ lệ phần trăm một chữ số giữa.
Công ty mỹ phẩm e.l.f. Beauty, sản xuất phần lớn sản phẩm tại Trung Quốc, cho biết họ đã tăng giá 1 đô la cho toàn bộ sản phẩm của mình kể từ ngày 1 tháng 8 do chi phí thuế quan, đây là lần tăng giá thứ ba trong lịch sử 21 năm của công ty. CEO Tarang Amin cho biết trong một cuộc gọi thu nhập gần đây: “Chúng tôi có xu hướng dẫn đầu và sau đó chúng ta sẽ xem có bao nhiêu công ty khác đi theo chúng tôi.”
Matt Pavich, Giám đốc điều hành của Revionics, một công ty cung cấp công cụ AI cho các nhà bán lẻ lớn để giúp họ đánh giá các quyết định định giá, cho biết nhiều công ty đang tăng giá một cách có chọn lọc để bù đắp cho thuế quan, thay vì tăng giá trên diện rộng. “Cho đến nay, chúng ta chưa thấy tác động lớn đến người tiêu dùng về giá bán lẻ,” ông Pavich nói. “Bây giờ, giá đang tăng lên, chúng tôi đã thấy điều đó.”




































